Dr Mya Hae Tha Dawn
Bác Sĩ Huyết Học
Nguồn: Getty Images and Shutterstock
Bác Sĩ Huyết Học
Điều trị đầu tiên cho Đa u tủy xương (Multiple Myeloma) thường liên quan đến phương pháp điều trị kết hợp, bao gồm hóa trị, liệu pháp nhắm mục tiêu và liệu pháp miễn dịch. Các loại thuốc thông thường bao gồm daratumumab, bortezomib, lenalidomide, thalidomide và dexamethasone.
Mục tiêu của điều trị ban đầu này, được gọi là liệu pháp cảm ứng, là giảm số lượng tế bào ung thư và chuẩn bị cho bệnh nhân thực hiện ghép tế bào gốc nếu có thể.
Các ứng cử viên cho ghép tế bào gốc thường là bệnh nhân dưới 65 tuổi, mặc dù tuổi tác không phải là tiêu chí duy nhất. Các yếu tố ảnh hưởng đến tư cách ứng cử viên bao gồm sức khỏe tổng thể, chức năng thận, sức khỏe tim và sự hiện diện của các tình trạng y tế khác.
Những bệnh nhân đáp ứng tốt với hóa trị ban đầu thường được coi là ứng cử viên tốt cho ASCT (Ghép tế bào gốc tự thân). Tuy nhiên, những người có bệnh tiến triển rộng, tổn thương cơ quan nghiêm trọng hoặc các bệnh đồng mắc đáng kể có thể không phù hợp với thủ thuật này.
Có 2 loại ghép tế bào gốc chính:tự thân autologous và dị sinh.
Đối với Đa u tủy xương, ghép tế bào gốc tự thân (ASCT) thường được khuyến nghị. Trong ASCT, tế bào gốc của chính bệnh nhân được thu hoạch, và sau đó được truyền lại sau khi hóa trị tích cực để tiêu diệt các tế bào ung thư. Tế bào gốc của chính bệnh nhân được sử dụng để giải cứu bệnh nhân khỏi các tác dụng phụ có khả năng nghiêm trọng của hóa trị liều cao, cho phép bệnh nhân phục hồi trong thời gian ngắn hơn. Các biến chứng liên quan đến miễn dịch hiếm khi xảy ra trong loại ghép tế bào gốc này.
Ghép tế bào gốc dị sinh (sử dụng tế bào gốc của người hiến) ít phổ biến hơn trong đa u tủy xương do nguy cơ cao hơn mắc bệnh ghép chống chủ (GVHD). Tuy nhiên, chúng có thể được xem xét trong một số trường hợp nhất định, chẳng hạn như tái phát sau khi ghép tự thân hoặc khi tế bào của chính bệnh nhân không khả thi.
Phục hồi sau ghép tế bào gốc tự thân có thể kéo dài và khác nhau giữa các bệnh nhân.
Thông thường, thời gian nằm viện ban đầu kéo dài khoảng 2–3 tuần, trong thời gian đó, số lượng tế bào máu và hệ thống miễn dịch của bệnh nhân bắt đầu phục hồi. Phục hồi đầy đủ chức năng miễn dịch có thể mất vài tháng đến một năm. Trong giai đoạn này, bệnh nhân được theo dõi chặt chẽ để phát hiện nhiễm trùng và các biến chứng khác.
Phục hồi chức năng và chăm sóc hỗ trợ, bao gồm vật lý trị liệu và hỗ trợ dinh dưỡng, đóng vai trò quan trọng trong quá trình phục hồi. Bệnh nhân thường được khuyên tránh đám đông lớn và tuân thủ các thực hành vệ sinh nghiêm ngặt để giảm thiểu rủi ro nhiễm trùng.
Ghép tế bào gốc có thể cải thiện đáng kể kết quả cho bệnh nhân đa u tủy xương.
Theo Hiệp hội Ung thư Hoa Kỳ, ghép tế bào gốc tự thân có thể dẫn đến thuyên giảm ở khoảng 50%–60% bệnh nhân..
Tỷ lệ sống sót lâu dài khác nhau, với nhiều bệnh nhân trải qua các giai đoạn thuyên giảm kéo dài. Điều quan trọng cần lưu ý là mặc dù ASCT không phải là một phương pháp chữa khỏi, nhưng nó có thể kéo dài sự sống và nâng cao chất lượng cuộc sống.
Tỷ lệ sống sót sau ghép tế bào gốc để điều trị đa u tủy xương đã được cải thiện qua nhiều năm.
Nhiều bệnh nhân sống thêm vài năm sau khi cấy ghép, với một số người đạt được sự thuyên giảm lâu dài.
Theo một nghiên cứu được công bố trên Tạp chí Ung thư Lâm sàng (Journal of Clinical Oncology), thời gian sống sót tổng thể trung bình đối với bệnh nhân trải qua ASCT là khoảng 5–10 năm, với một số bệnh nhân sống lâu hơn nhiều.
Ghép tế bào gốc cung cấp một lựa chọn điều trị khả thi và thường hiệu quả cho bệnh nhân đa u tủy xương.
Mặc dù nó không phải là một phương pháp chữa khỏi, nhưng nó có thể kéo dài đáng kể sự sống và cải thiện chất lượng cuộc sống. Bệnh nhân cân nhắc điều trị này nên thảo luận về lợi ích và rủi ro tiềm tàng với các nhà cung cấp dịch vụ chăm sóc sức khỏe của họ để đưa ra quyết định sáng suốt.
Tìm hiểu thêm về ghép tế bào gốc, Đa u tủy xương, và cách bạn có thể bắt đầu hành trình ghép tạng với chúng tôi tại Mount Elizabeth.